Tìm kiếm món ăn của bạn

Đặt bàn
Dịch vụ tâm Linh Thiên Tuệ, Đồ cúng tâm linh, mâm cơm chay cung kính,

Lịch sử phát triển Họ Đoàn tại Việt Nam - phần 2

Thứ Tư, 28/06/2023
DoanDangThienTue

Tiếp phần 1

TIẾN SĨ NHO HỌC HỌ ĐOÀN

Đoàn Xuân Lôi, người Ba Lỗ, huyện Tân Phúc, nay là Làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hòa Hiệp, tỉnh Bắc Giang. Đỗ khoa thi Thái học sinh, năm Giáp tý(1384), niên hiệu Xương Phù 8, đời Trần Phế Đế. Khoa thi này thi ở chùa Vạn Phúc, núi tiên Du thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, theo sắc chỉ của Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông. 30 tiến sỹ đỗ nhưng nay chỉ ghi được họ, tên 2 người. Ông làm quan đến chức trung thủ Hoàng môn thị lang kiêm Thông phái ái Châu. Tác phẩm hiện còn một bài phú chép tay.

Đoàn Nhân Công, người xã Cao Mật, huyện Thanh Oai, nay là thôn Cao Cật, xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Tây. ông đỗ đệ tam Giáp đồng tiến sỹ xuất thân, khoa mậu thìn, niên hiệu Thái Hòa 6 (1447) đời vua Lê Nhân Tông, được bổ chức Ngự tiền học sinh.

Đoàn Lạn, người xã Hồng Lộc, huyện Trường Tân, nay thuộc xã Tân Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sí xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Bính Tuất, niên hiệu Hồng Đức 7 (1466) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thừa Tuyên sứ, được cử đi sứ sang nhà Minh.

Đoàn Hiến Chân, người xã Ôn Xá, huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hồng Đức 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thượng thư đông các đai học sĩ.

Đoàn Mậu, người xã Kim Côi, huyện An Lão, nay là thôn Kim Côi, xã Chiến Thắng, huyện An Lão, TP Hải Phòng. Ông đỗ đệ tam đồng tiến sĩ xuất thân, khoa ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 16 (1475) đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư, Tri chiêu văn quán, Tú lâm cục, tước Cẩm lễ nam.

Đoàn Huệ Nhu, người Phù Lệ, huyện ngự Thiên, nay thuộc xã Liên hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 28 đời Lê Thánh Tông (1487) làm quan đến chức Thừa Chinh sứ, ông là thành viên Hội Tao Đàn tác phẩm hiện còn 12 bài thơ chữ Hán.

Đoàn Nhân Thục, người xã Nghĩa Đô, huyện từ Liêm Hà Nội. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiển Tông. Ông làm quan đến chức Hiến Sát Sứ.

Đoàn Văn Thông, người huyện Quảng Đức, nay thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trú quán xã Lương Xá, huyện Làng Tài, nay thuộc xã Phú Lương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận 3 (1511) đời Lê Tương Dực. Ông làm quan đến chức Lễ bộ hưu thị lang.

Đoàn Quảng Phu, hay Đoàn Đức Phu, người huyện Đường An, nay là thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời Lê Tương Dực, làm quan đến chức Đông các đại học sĩ.

Đoàn Sư Đức, người xã Văn Xá, huyện Làng Tài, nay là thôn Văn Xá, xã Phú Hòa, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời Lê Tương Dực. Ông làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư, tước Hà Văn Hầu, được cử đi sứ sang nhà Minh.

Đoàn Thế Bạt, người xã Phù Nội huyện Thanh Miện, nay là thôn phù Nội, xa Hùng sơn, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. 40 tuổi Đỗ hội Nguyên, 54 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, khoa Đinh sửu, niên Hiệu Hồng Thuần Phúc 16 (1577) đời Mạc mậu Hợp, sau giúp nhà Lê làm quan đến chức Tham Chính.

Đoàn Khắc Thận (sinh 1530- … ), người xã Phụ Vệ, huyện Chí Linh, nay là xã ái Quốc, huyện Nam sách, tỉnh Hải Dương. 60 tuổi đỗ đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa kỷ sửu, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589) đời Mạc Mậu Hợp, sau giúp nhà Lê, làm quan chức Hiến Giáp sứ.

Đoàn Hân, người xã Phù Nội, xã Hùng Sơn, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. 54 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa canh thìn, niên hiệu Diên Khánh 3 (1580), đời Mạc Hậu Hợp, làm quan chức Hiến sát sứ.

Đoàn Kim Sơn, người xã Mỹ Huệ, huyện Tiên Minh, nay là thôn Mỹ Huệ, huyện Tiên Minh, nay là thôn Mỹ Huệ, xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng. 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa kỷ sửu, niên hiệu Hưng Trị 2 (1589), Đời Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức giám sát ngự sử. Nhà Mạc suy, ông không chịu theo nhà Lê, cử binh chống lại.

Đoàn Tuấn Hòa (1622- …), người xã Cự Đồng, huyện Siêu loại, nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Quê gốc của ông ở xã Chi nê, huyện tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông còn có tên là Nguyễn Tuấn Hòa. 13 tuổi ông đỗ Hương cử, 55 tuổi ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuát thân, khoa bính thìn, niên hiệu Vĩnh Trị 1(1676) đời Lê Hy Tông, làm quan đến chức Binh bộ hữu thị lang, tước Nam, quản binh không đúng luật, bị truất, sau được phục dụng làm đến chức tự Khanh, tước tử. Làm quan quan đốc trấn Cao Bằng, đến Châu Lộc Bình của người Thanh dàn xếp việc biên giới, thăng Binh bộ hữu thị lang, nhập Bồi tụng, 75 tuổi về trí sĩ.
16. Đoàn Quang Dung (1681- 1741), người xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Sau đó sửa đổi tên thành Đoàn Bá Dung. Năm 30 tuổi ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thanh, khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710) đời Lê Dụ Tông. Năm kỷ Dậu (1729) được cử làm phó sứ sang nhà Thanh. Làm quan đến chức Lễ Bộ thượng thư, tước Phụ quan công, mất tháng 6 năm Tân Dậu (1741) thọ 62 tuổi. Được truy tặng hàm thiếu bảo, Đoàn Bá Dung cùng Nguyễn Huy Nhuận, Cao Huy Trạc,Trịnh Bá Trương đều là người xã Phú Thụy, Gia Lâm, Hà Nội, đều đõ tiến sỹ làm Thượng thư, đồng thời tham gia vào những chính sách lớn của Lê – Trịnh.

17.Đoàn Chú (1715- … ) người xã Phủ Lỗ, Huyện Kim Anh, nay là xã Phủ Lỗ, Huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Năm 32 tuổi ông đỗ Đình Nguyên, Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, khoa Bính Dần, niên hiệu Cảnh Hưng 7 (1746) đời Lê Hiền Tông, làm quan đến chức Tả thị lang, tước Hầu.

Đoàn Duy Tĩnh (1278 – 1783), người xã Hải An, huyện Quỳnh Côi nay thuộc xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình , nguyên gốc thôn Đại Hạnh, huyện Văn Giang, H¬ng Yên. Sau này ông Tĩnh đổi tên là Đoàn Nguyễn Thục để tránh phạm húy chúa Tĩnh Độ Vương Trịnh Sâm. Ông là danh thần đời Lê Hiển Tông, văn võ song toàn. 25 tuổi ông đỗ đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, khoa Nhâm Thân, niện hiệu Cảnh Hưng 13 (1752), đời Lê Hiển Tông. Năm Nhâm Tý (1768) ông làm HIệu thư đông các, kiêm chức Thiên đô sứ. Tính ông cương trực, luôn giữ vững khí tiết, được sỹ phu trọng vọng. Chính ông dâng biểu hạch tội. Dượng Trọng Khiêm, được Chúa Trịnh Sâm khen thưởng, cho 3 nén bạc.

ít lâu sau ông về quê chịu tang, nhưng gặp lúc nước có nhiều biến loạn, ông lại dâng biểu xin làm việc, được triều đình chấp thuận cử ông thống lĩnh các đạo quân ở miền Thượng Du.

Năm Tân Mão (1771) ông làm Chánh sử sang nhà Thanh dâng lễ cống, khi trở về được thăng Phó độ ngữ sử, tước Quỳnh Xuyên Bá.

Năm Giáp Ngọ (1774) , ông là đốc trấn Nghệ An, vì bất đồng ý kiên với phụ tá là Thiệu quận công, ông dâng sớ xin về hưu . Năm sau (1775) ông mất, thọ 57 tuổi, được truy tặng chức Đô ngự sử, thụy, là Cảnh Trực.

Khi đi sứ về ông có soạn bộ sách Đoàn Hoàng Giáp phụ sự tập, 2 quyển.

Đoàn Nguyễn Tuấn (1750 – … ) có sách chép Đoàn Văn Tuấn, con cụ Đoàn Nguyễn Thục người xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình. Hiệu là Hải Ông. Ông đỗ tiến sĩ Triều Lê Hiển Tông. Sau ra làm quan cho nhà Tây Sơn, đến chức Tả thị lang Bộ lại, tước Hải Phái hầu. Sau chiến thắng Đông Đa của Nguyễn Huệ, ông được cử đi sứ nhà Thanh. ông là người văn chương nổi tiếng. Em gái ông là chính thất của Đại thi hào Nguyễn Du.

20.Đoàn Văn Bình (1824 – … ), người Hạ Lang, Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế, nay là thôn Hạ Lang, xã Quảng Phú, Huyện Quảng Điền. Ông còn có tên Đoàn Văn Hội. Năm 25 tuổi ông đỗ Phó bảng ân khóa, khóa Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức (1848), làm quan đến chức Hiệp biện đại học sĩ, Thải tử hiểu bảo, lĩnh Lại bị thượng thư.

Tài liệu này trích trong cuốn “Các nhà khoa bảng Việt Nam” do NXB Văn hoc ấn hành năm 1993 – Ngô Đức Thọ chủ biên. Trong cuốn này không có Đoàn Nguyễn Tuấn.

CỬ NHÂN NHO HỌC TRIỀU NGUYỄN

Đoàn Xuân Sảng, người xã Chân Nguyên, huyện Nam Chân, khoa thi năm Quý Dậu (1813) ở Trường Sơn nam, đỗ 14/28 người. Sau làm quan Đô đốc học.

Đoàn Trọng Quýnh, ngư¬ời thôn Trung Hoà, huyện Bình D¬ơng, thi khoa thi năm Quý Dậu (1813) tại Tr¬ờng Gia Định, đỗ thứ 4/8 ng¬ời.

Đoàn Bá Trinh, ngưười xã Ôn Xá, huyện Văn Giang. Thi khoa năm Kỷ Mão, gia Long thứ 18 (1819 – tại trường Trực Lệ, đỗ thứ 2/17 người, làm quan tư nghiệp.

Đoàn Thế Trạch, người xã Phủ Lỗ, huyện Kim Anh. Thi khoa thi năm Tân Tỵ, minh mạng thứ 2 (1621) tại trường Thăng Long, đỗ thứ 15/23 người.

Đoàn Khiêm Quang, người thôn An Thành, huyện Bình Dương, đi thi khoa thi năm Tân tỵ, Minh mạng thứ 2 (1821) tại trường Gia Định, đỗ 7/16 người, làm quan tham tri Bộ Hình.

Đoàn Huy Tú, người xã Phương Duy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. đi thi khoa thi Mậu Tý, Minh Mạng thứ 9 (1829 ) tại trường Thanh Hoá, đỗ 6/11 người, sau ra làm tri huyện.

Đoàn Mậu (cha con cùng thi đậu), người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên, thi khoa Mậu Tý, minh mạng thứ 9 (1828), tại trường thi Nam Định, đỗ 25/30 người, làm tri phủ, bị miễn nhiệm.
8. Đoàn Danh Dương, người xã Quang Thiềm, huyện La Sơn, Hà Tĩnh, thi khoa Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831) tại trường Nghệ An, đỗ 11/18 người, có tiếng giỏi , được thăng án sát Vĩnh Long, bị bệnh về nghỉ.
9. Đoàn Trọng Huyên (cha con cùng thi đậu), người xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, thi khoa năm Tân Mão, minh mạng thứ 12 (1831) tại trường Nam Định, đỗ thứ 2/31 người. Làm quan đến chức Thị giảng học sĩ, đốc học Bắc Ninh. Ông là một trong những tác giả văn học của Thăng Long – Hà Nội thế kỷ 19- 20.

Đoàn Văn Hoán, người xã Nam Phố, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ông dự thi Quỹ Mão, Thiệu trị thứ 3 (1843) tại trường thừa Thiên, đỗ thứ 22/39 người. Làm quan tới chức Bố chánh.

Đoàn Công Nhẫm, người xã Vi Sơn, huyện thạch Thất, Hà Tây. Đi thi khoa Quý Mão, Thiệu trị thứ 3 (1848) tại trường Hà Nội, đỗ thứ 7/21 người.

Đoàn Văn Bình, người xã Hạ Lang, huyện Quảng Điền. Ông là người đầu đỗ đầu kho thi Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846) tại trường Thừa Thiên có 46 người đỗ. Năm Mậu Thân (1848) ông đỗ phó bảng, sau làm hiệp tá đại học sĩ, thượng thư bộ lại, Gia hàm Thái tử Thiếu bảo, sung cơ mật viện đại thần.

Đoàn Duy Trinh, người xã Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Đỗ thứ 34/46 người tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm Bính Ngọ, Thiệu trị thứ 6 (1846). Làm Giáo thụ, cáo về.

Đoàn Khắc Nhuợng (anh em họ với ông Trinh), người xã Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn, đỗ thứ 40/46 người, tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm Bính Ngọ, Thiệu trị thứ 6 (1846), làm tuần phủ Nam Ngãi, có tiếng liêm khiết.

Đoàn Duy Thục, người xã Mai Dịch, huyện Từ Liêm. Đỗ thứ 4/26 người tại trường Hà Nội, khoa thi năm Đinh Mùi (1849) Thiêụ Trị thứ 7. Sau được bổ làm tri huyện.

Đoàn Hy, người xã Vân Chàng, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định. Đỗ thủ khoa tai trường Nam Định. Lấy đỗ 27 người khoa thi năm mậu Thân, Tự Đức thứ 1 (1848). Được bổ chức Giáo thụ.

Đoàn Đức Mậu, người xã Đông Công, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, Đỗ thứ 20/24 người tại trường Nghệ An, khoa thi Canh Tuất, Tự Đức thứ 3 (1850).

Đoàn Kim Dao (sau đổi là Đoàn Dao), người xã ưu Đàm, huyện Phong Điền. Cha là Đoàn Cư cũng đỗ cử nhân. Ông đỗ thứ 20/22 người tại trường Thừa Thiên, khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852). Được bổ làm án sát, sau bị cách chức, được phục dụng rồi thăng Bố Chánh Quảng Ngãi.

Đoàn Thuật, ng¬ười xã Vân Chàng, huyện Nam Chân, Nam Định. Đỗ thứ 6/20 người tại trường Nam Định, khoa thi Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852).

Đoàn Ngọc ái, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, đỗ thứ 10/20 người tại trường Nam Định, khoa thi năm Mậu Tý, Tự Đức thứ 5 (1852).

Đoàn Văn Diệu, người xã Cửu An, huyện Đồng Xuân, Phú Yên, đỗ thứ 9/10 người tại trường Bình Định, khoa thi năm ất Mão, Tự Đức thứ 8 (1855).

Đoàn Tảo, ngư¬ời xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hung Yên (em Đoàn Ngọc ái), đỗ thứ 22/22 người tại trường Nam Định, khoa thi năm Mậu Ngọ, tự Đức thứ 11 (1858). Được bổ làm Tri phủ Lâm Thao. Sau bị cách chức.

Đoàn Tấn Thiện, thôn Mỹ Đông Hiếu, tỉnh Kiến Đăng, đỗ thứ 3/9 người tại trường Gia Định, khoa thi năm Mậu Ngọ, tự Đức thứ 11 (1858)

Đoàn Đảng, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H¬ưng Yên, đỗ thứ 21/22 người tại trường Nam Định, khoa thi năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868).

Đoàn Như Bích, người xã Đậu Kinh, huyện Đăng Sương, Quảng Trị, đỗ thứ 11/29 người tại trường Thừa Thiện, thi năm Canh Ngọ, tự Đức thứ 23 (1870). Được bổ làm Giám sát ngự sử nội vụ.

Đoàn Bưu, người xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, khoa thi năm Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870). Được bổ làm Tri phủ.

Đoàn Đình Tiến, người xã Thi Liệu tỉnh Nam Định, đỗ thứ 25/25 người tại trường Nam Định, khoa thi năm Giáp Tuất, tự Đức thứ 27 (1874).

Đoàn Văn Anh, sau đổi là Đoàn Văn Phương, người xã Đông Thanh, tỉnh Nam Định, thi đỗ thứ 6/21 người, tại trường Nam Định, khoa thi năm Bính Tý, tự Đức thứ 29 (1876). Được bổ làm tri phủ Xuân Trường, sau xin nghỉ.

Đoàn Hữu Thuật, người xã Thái Bình, tỉnh Nam Định, thi đỗ thứ 16/21 người tại trường Nam Định, khoa thi năm Bính Tý, tự Đức thứ 29 (1876).

Đoàn Diệu, người xã Ngọc Thạnh, huyện Tuy Phước, Quảng Nam đỗ thứ 7/12 người, tại trường thi Bình Định, khoa thi năm Bính tý, tự Đức thứ 29 (1876).
31. Đoàn Cư, sau đổi là Đoàn Lang, người xã ưu Đàm, huyện Phong Điền, Thừa Thiên (con Đoàn Kim Dao), đỗ thứ 28/32 người tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878). Được bổ làm án Sát Quảng Nam.

Đoàn Điển, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên thi đỗ thứ 15/24 người tại trường Nam Định khoa thi năm Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878). Được bổ làm Tri phủ Quỳnh Lưu.

Đoàn Văn Thước, người xã ưu Đàm, huyện phong Điền, Thừa Thiên, đỗ thứ 29/31 người tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm Giáp Thân, Kiến Phúc thứ nhất (1884). Được bổ làm tri huyện.

Đoàn Triển , người xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội (con cụ Đoàn Trọng Huyên), thi đỗ thứ 22/47 người tại trường thi Hà Nam – Ninh bình, khoa thi năm ất Dậu, hàm nghi thứ nhất (1885). Được bổ làm Viên ngoại Nha kinh lược, Trần Phủ Ninh Bình, tổng đốc Nam Định. Khi làm tuần phủ Ninh Bình có làm tờ trình lên triều đình về việc chỉnh đốn công tác giáo dục, soạn thảo sách giáo khoa và quy chế thi cử, có nhiều ý tưởng tiến bộ.

Đoàn Thụy Liên, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên thi đỗ tứ 12/56 người tại Hà Nam, khoa thi năm Đinh Hợi, Đồng Khánh thứ 2 (1887).

Đoàn Tấn, người xã Xối Thượng, tỉnh Nam Định, đỗ thứ 20/56 người tại trường Hà Nam, khoa thi Năm Đinh Hợi, Đồng Khánh thứ 2 (1887).

Đoàn Tùy, người xã Phú Môn, huyện Phú Vang, Thừa Thiên, khoa thi Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891).

Đoàn Khởi, người xã Ngọc Sa, tỉnh Quảng Nam, thi đỗ thứ 23/27 người tại Thừa Thiên, khoa thi Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891).

Đoàn Văn San, người xã Đức Nhuận, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, khoa thi năm Tân Mão, Thành Thái Thứ 3 (1891).

Đoàn Thúc Vĩ, ấm Sinh, người huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, đỗ thứ 14/19 người (năm 27 tuổi) tại trường Bình Định, khoa thi Năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6 (1894).

Đoàn Thụy Giáp, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Năm 35 tuổi thi đỗ thứ 12/60 người tại trường Hà Nam, khoa thi Năm Giáp Ngọ Thành Thái thứ 6 (1894). Con cụ Đoàn Mậu.
42. Đoàn Văn Huy, người xã Mai Dịch, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 37 tuổi thi đỗ thứ 16/60 người tại trường Hà Nam, khoa thi năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6 (1894).

Đoàn Tử Quang, quê xã Phụng Công, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh (nay xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ), 82 tuổi thi đỗ thứ 29/30 người tại trường Nghệ An, khoa thi năm Canh Tý, thành Thái thứ 12 (1900), được coi là sự kiện hiếm có trong lịch sử thi cử Việt Nam. Được bổ chức Huấn đạo huyện Hương Sơn.

Đoàn Tố, người xã Mỹ Đức, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định, thi đỗ thứ 12/18 người tại trường Bình Định, khoa thi năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903).

Đoàn Ngưng, người xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, 38 tuổi thi đỗ thứ 6/60 người tại trường Hà Nam, khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906).

Đoàn Như Chương, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, 28 tuổi thi đỗ thứ 24/50 người tại trường Hà Nội, khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906).

Đoàn Vỹ, người Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội (con cháu cụ Đoàn Triển), 26 tuổi đỗ thứ 35/50 người tại trường Hà Nam, khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906).

Đoàn Quân, người xã Đô Quan, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, 21 tuổi đỗ thứ 27/30 người tại trường Hà Nam, khoa thi năm Nhâm Tý. Duy Tân thứ 6 (1912).

Đoàn Đạm, người xã Liễu Đôi, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, 25 tuổi đỗ thứ 29/30 người tại trường Hà Nam, khoa thi năm Nhâm Tý. Duy Tân thứ 6 (1912).

Đoàn Đình Chi, người xã Đào Lãng, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. 24 tuổi đỗ thứ 24/32 người tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm ất Mão, Duy Tân thứ 9 (1915). Được bổ làm tri huyện Bình Khê. Cha con ông Chi là Đoàn Đình Duyệt, thượng thư Bộ công, hiệp tá đại học sĩ Ninh lãng nam, em là Đoàn Đình Phương, cử nhân khoa mậu Ngọ (1918).

Đoàn Thăng, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H¬ưng Yên, 24 tuổi thi đỗ thứ 21/40 người tại trường Hà Nội – Nam Ninh thi chung, khoa thi năm ất Mão, Duy Tân thứ 9 (1915).

Đoàn Đình Phương, người xã Đào Lãng, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, 29 tuổi thi đỗ thứ 9/29 người tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm Mậu Ngọ. Khải Định thứ 3 (1918). Ông là em ruột của Đoàn Đình Chi.

Tài liệu trên đây là trích lục trong quyển ” Quốc triều Hương khoa lục” của cử nhân nho học Cao Xuân Dục. Được dịch ra Quốc Ngữ – NXB thành phố Hồ Chí Minh ấn hành 1993, có bổ sung về vài điểm về công việc và chức tước của một số vị tham khảo trong sách ” Các nhà khoa bảng Việt Nam” của Ngô Đức Thọ – NXB văn học 1993 và “Sách sứ thần Việt Nam” NXB văn hóa thông tin năm 1996…..

Đoàn Văn Phương, người xã Vĩ Bạc, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Đi thi khoa Mậu Tý, minh mạng thứ 9 (1828) tại trường Thanh Hóa, đỗ thứ 6/11 người. Sau ra làm tri huyện.

Đoàn Danh Chấn, người xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H¬ưng Yên, thi đỗ thứ 29/56 người tại trường Hà Nam, khoa thi năm Đinh Hợi , Đồng Khánh thứ 2 (1887).

Kính thưa quý vị!

Với thời gian nghiên cứu, sưu tầm có hạn chúng tôi xin thông tin đến quý vị một số nét sơ bộ về dòng tộc cụ Đoàn Văn Khâm, là một dòng họ đã tồn tại và phát triển khoảng 1000 năm nay mà rất nhiều vị trong chúng ta hẳn là hậu duệ cụ Đoàn Văn Khâm. Đến nay chúng tôi chưa có tư liệu về một dòng Họ Đoàn khác lâu đời hơn dòng tộc cụ Đoàn Văn Khâm. Ngoài ra, chúng tôi cũng liệt kê thêm 42 nhánh họ, chi họ Đoàn đã và đang có mặt ở các địa phương trong cả nước từ 400 đến 700 năm nay. Những nhánh, những chi họ này có thể là hậu duệ của cụ Đoàn Văn Khâm mà cũng có thể thuộc một dòng họ khác vì chúng tôi chưa có điều kiện chắp nối và chưa có tư liệu khẳng định chắc chắn còn có rất nhiều chi họ cũng rất lâu đời nhưng chưa được liệt kê vào đây. chúng tôi cũng liệt kê 20 vị tiến sĩ nho học họ Đoàn từ triều Trần đến triều Nguyễn và 54 vị cử nhân nho học của triều Nguyễn. Riêng các họ Đoàn có học vị dưới tiến sĩ trước triều Nguyễn chúng tôi chưa có tư liệu.

Việc đưa các danh nhân Họ Đoàn thời cận đại và một số thời hiện đại được nhiều người biết đến vào các chi họ rõ ràng đang có nhiều thiếu sót, song đó là sự sắp xếp có dụng ý của chúng tôi với hy vọng các danh nhân đã khuất của họ sẽ được chúng ta tìm và đưa vào phả họ, đồng thời hiện nay bất cứ ai, dù ở cương vị nào cũng tìm được chỗ đứng trong gia phả của chi họ mình. Nhờ vậy, tất cả con em Họ Đoàn sẽ có ý thức hơn về Tổ tiên, sẽ dựa trên cơ sở tư liệu còn ít ỏi mà chúng tôi đã ghi chép để góp sức tìm hiểu, sưu tầm, bổ sung thêm, nhăm phục vụ thành công việc chắp nối dòng Họ.
Thưa Quý vị, Họ Đoàn Việt Nam có thể có một cụ tổ mà hiện nay không cùng dòng tộc mặc dù thời xa xưa là cùng một cụ tổ. Vì vậy cuộc hành trình trở về cội nguồn là một cuộc hành trình đầy gian khó, cần sự cộng tác của nhiều người có trí và có lực, với thời gian dài, song với đặc điểm của Họ Đoàn chúng ta hoàn toàn có thể chắp nối gia phả, biên tập tiểu sử của từng dòng Họ.

Xin đề nghị Quý vị cùng chúng tôi làm một số việc sau đây:

Sưu tầm các tư liệu về Họ Đoàn có trong các thư tịch cổ của quốc gia, các di sản của dòng họ đang tồn tai tản mát trong các thôn xã.

Thống kê các tiểu chi, các chi, các nhánh họ đang định cư ở các thôn, dù đã biết nguồn gốc hay chưa biết. Trên cơ sở phối hợp, tìm hiểu, đối chiếu tư liệu về các chi họ để chắp nối với nhau trong phạm vi một xã, một huyện, một tỉnh hay nhiều tỉnh có liên quan từ đó mới có thể làm được phả tộc của họ. Thống kê các chi họ đi đôi với thu thập các tư liệu về danh nhân, các di sản của danh nhân phục vụ cho việc biên tập sử họ sau này.

Hà Nội là nơi có người của hầu khắp các chi, nhánh Họ Đoàn cả nước, nhất là từ miền trung trở ra, trong đó có thể có người là hậu duệ của cụ tổ Họ Đoàn thời dựng nước mà hiện nay chúng ta chưa được biết. Hà Nội còn là nơi tích lũy rất nhiều tài liệu về lịch sử quốc gia, về các dòng Họ, có nhiều di chỉ văn hóa mà chúng ta có thể khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu về Họ. Chúng tôi xin đề nghị: Từ các vị có mặt trong cuộc họp hôm nay chúng ta sẽ mở rộng phạm vi giao tiếp với người cùng họ, khuyến khích tất cả các vị: một mặt nghiên cứu sưu tầm các tư liệu về họ Đoàn trên địa bàn thủ đô, đồng thời liên hệ với nguyên quán để thông tin cho chúng tôi về chi họ của mình và những hiểu biết về Họ Đoàn mà mình thu nhập được.

Hiện nay, trong rất nhiều thôn xã ở Việt Nam, nhất là những thôn, xã được coi là gốc tổ Họ Đoàn hoặc nơi có các nhánh Họ Đoàn sinh sống lâu đời có nhiều gia phả, tư liệu Hán Nôm, các di sản văn hóa về họ Đoàn nhưng chưa được phát hiện thu thập, khai thác. Để làm được việc này cần xúc tiến hơn nữa việc thành lập ban liên lạc Họ Đoàn ở các tỉnh và các huyện trọng điểm, nơi có đông người Họ Đoàn sinh sống. Ban liên lạc Họ Đoàn cần người có cương vị công tác ở tỉnh, huyện tham gia để tăng vị thế của Ban liên lạc, song nhất thiết phải có các vị thư kí có năng lực, năng nổ, nhiệt tình để tổ chức thêm người làm việc này, đồng thời đến những địa chỉ cần thiết để thu thập thông tin về Họ. Chúng tôi đề nghị quý vị giới thiệu người có năng lực và nhiệt tình đang thường trú ở quê hương tích cực tham gia việc Họ ở địa phương.

Mong muốn của đại đa số con em Họ Đoàn là biết được cội nguồn tổ tiên và truyền thống qúy báu của dòng Họ. Muốn làm được việc này thì Họ Đoàn cũng như nhiều Họ khác phải bắt đầu làm gia phả tiểu chi, rồi đến tộc phả. Từ việc làm gia phả tiểu chi 4, 5 đời chúng ta cố gắng chắp nối với các tiểu chi cùng có một cụ tổ trong thôn xã và đi về các địa phương nơi xuất xứ của dòng Họ để tìm nguồn gốc lập nên phả tộc của Họ nhiều đời. Chúng tôi đề nghị Quý vị trực tiếp hoặc tổ chức người làm gia phả tiểu chi, hỗ trợ tích cực việc làm tộc phả, đi đôi với việc thu thập thông tin rộng rãi về Họ Đoàn. Đó là cách tốt nhất để góp phần chắp nối thành công dòng tộc Họ Đoàn ta. Hiện nay nhiều chi họ ở nông thôn rất muốn làm gia phả song ” lực bất tòng tâm”, nếu không có sự hỗ trợ của quý vị trong ban liên lạc tỉnh, huyện và các vị người Họ Đoàn vừa có năng lực vừa có điều kiện ở thành phố, thị xã thì việc làm phả họ sẽ rất khó khăn. Mong quý vị hết sức quan tâm việc này.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Quý vị đã, đang và sẽ cộng tác với Ban liên lạc Họ Đoàn nhằm hoàn thành việc tiếp nối hệ tộc tìm về cội nguồn, góp phần phát huy văn hóa quý báu của dòng Họ.

Xin chân thành cảm ơn Quý vị.

Tổ thư ký

"ST"

Viết bình luận của bạn
Danh mục